Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, kỷ luật và sự vận dụng của Đảng ta hiện nay
17/05/2024 02:46
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đặc biệt đến việc xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh. Để Đảng ta thực sự "là đạo đức, là văn minh", giữ vững vị trí, vai trò, năng lực cầm quyền, lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Người luôn quan tâm chỉ đạo công tác kiểm tra và kỷ luật của Đảng, và đặc biệt thể hiện rõ tính Đảng, tính nhân văn sâu sắc...
ThS. Nguyễn Thị Hồng Giang
GVC. Khoa Xây dựng Đảng
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm đặc biệt đến việc xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh. Để Đảng ta thực sự "là đạo đức, là văn minh", giữ vững vị trí, vai trò, năng lực cầm quyền, lãnh đạo toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Người luôn quan tâm chỉ đạo công tác kiểm tra và kỷ luật của Đảng, và đặc biệt thể hiện rõ tính Đảng, tính nhân văn sâu sắc. Lý luận về kiểm tra, kỷ luật đảng trong tư tưởng Hồ Chí Minh đã và đang soi đường cho công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng, được Đảng ta vận dụng có hiệu quả trong suốt quá trình cách mạng.
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, kỷ luật Đảng
Trước tiên là về vai trò của công tác kiểm tra, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi kiểm tra là một khâu quan trọng trong toàn bộ công tác lãnh đạo của Đảng. Người chỉ rõ: “Có kiểm tra mới huy động tinh thần tích cực và lực lượng to tát của Nhân dân, mới biết rõ năng lực và khuyết điểm của cán bộ, mới sửa chữa và giúp đỡ kịp thời”[1]. Theo Người, mục đích của công tác kiểm tra chính là phát hiện những hạn chế, bất cập, thiếu sót trên mọi phương diện trong quá trình tổ chức thực hiện để hoàn thành tốt nhất công việc đề ra. Thông qua kiểm soát, những hạn chế, khuyết điểm đều được phát hiện và khắc phục kịp thời; nhờ có kiểm tra mà biết rõ cán bộ và nhân viên tốt hay xấu, mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các cơ quan, của các mệnh lệnh và nghị quyết. Đồng thời, công tác kiểm tra còn được Chủ tịch Hồ Chí Minh coi là một trong ba nhân tố quyết định đến sự thành công của mọi công việc, bên cạnh cách thức tổ chức thực hiện và công tác cán bộ. Theo Người, nếu thiếu một trong ba điều trên thì chính sách đúng đến mấy cũng không thể mang lại hiệu quả trong thực tiễn.
Tại Hội nghị tổng kết công tác kiểm tra của Đảng (ngày 29-7-1964), Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục khẳng định: “Kiểm tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm trọn nhiệm vụ đối với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho Nhân dân. Do đó mà góp phần vào việc củng cố Đảng về tư tưởng, về tổ chức”[2]. Kiểm tra là hoạt động tất yếu và có vai trò quan trọng trong công tác lãnh đạo. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, giữa lãnh đạo và kiểm tra có mối quan hệ biện chứng và là nguyên nhân - kết quả của nhau. Trong đó, kiểm tra được coi là một trong những nhiệm vụ quan trọng quyết định tính đúng đắn và đem lại hiệu lực, hiệu quả trong lãnh đạo. Người chỉ rõ: “Lãnh đạo đúng nghĩa là: 1- Phải quyết định mọi vấn đề cho đúng… 2- Phải tổ chức sự thi hành cho đúng… 3- Phải tổ chức sự kiểm soát”[3]. Trong lãnh đạo cần phải thực hiện kiểm tra, kiểm tra là để phục vụ lãnh đạo, có như vậy các nghị quyết, chính sách mới đi vào cuộc sống, mới được tổ chức thực hiện tốt và có kết quả. Kiểm tra là yếu tố cơ bản để người lãnh đạo bám sát thực tiễn hoạt động. Kết quả kiểm tra giúp cho người lãnh đạo có thông tin thực tiễn, từ đó ban hành, điều chỉnh các quyết định một cách hợp lý, phù hợp với yêu cầu định hướng quản lý, lãnh đạo.
Tiếp theo là về cách thức kiểm tra, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh một số nội dung sau:
Thứ nhất, cần phải vận động quần chúng Nhân dân tham gia vào công tác kiểm tra, xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết với quần chúng Nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Những người lãnh đạo chỉ trông thấy một mặt của công việc, của sự thay đổi của mọi người: trông từ trên xuống. Vì vậy, sự trông thấy có hạn. Trái lại, dân chúng trông thấy công việc, sự thay đổi của mọi người, một mặt khác: họ trông thấy từ dưới lên. Nên sự trông thấy cũng có hạn. Vì vậy, muốn giải quyết vấn đề cho đúng, ắt phải họp kinh nghiệm cả hai bên lại”[4]. Theo Người, trong công tác kiểm tra nói riêng và trong mọi công tác nói chung cần phải xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết với Nhân dân, phải lắng nghe ý kiến của Nhân dân, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi; trái lại, xa rời Nhân dân, không xây dựng mối quan hệ gắn bó mật thiết với Nhân dân, nhất định sẽ thất bại.
Thứ hai, công tác kiểm tra phải được thực hiện có hệ thống, phải làm thường xuyên. Nghĩa là khi đã có nghị quyết, chính sách thì phải lập tức đôn đốc, tổ chức thực hiện nghị quyết, chính sách ấy, “phải biết rõ sự sinh hoạt và cách làm việc của cán bộ và Nhân dân địa phương ấy. Có như thế mới kịp thời thấy rõ những khuyết điểm và những khó khăn để sửa đổi các khuyết điểm và tìm cách giúp đỡ để vượt qua mọi sự khó khăn”[5]; đồng thời, kiểm tra có liên quan mật thiết đến sự thành bại của công việc, nên cần phải được thực hiện thường xuyên, bền bỉ và có kế hoạch cụ thể, tỉ mỉ, chi tiết.
Thứ ba, công tác kiểm tra phải được tiến hành tận nơi, sát người, sát việc. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc kiểm tra không nên chỉ dựa vào hệ thống báo cáo, mà phải đi đến tận nơi, xem tận chỗ. Phương pháp trong kiểm tra là phải đi cơ sở nắm thông tin, tình hình; thẩm tra, xác minh, phân tích, đánh giá để kết luận vụ, việc khách quan, chính xác. Chủ thể kiểm tra phải sử dụng các phương pháp cả kiểm tra trực tiếp và kiểm tra gián tiếp để bảo đảm tính tập trung, dân chủ, nhằm đưa ra những quyết định và các biện pháp xử lý đúng tính chất vụ, việc. Người từng thẳng thắn phê phán: “Nhiều nơi cán bộ lãnh đạo chỉ lo khai hội và thảo nghị quyết, đánh điện và gửi chỉ thị, sau đó, thì họ không biết gì đến những nghị quyết đó đã thực hành đến đâu, có những sự khó khăn trở ngại gì, dân chúng có ra sức tham gia hay không. Họ quên mất kiểm tra. Đó là một sai lầm rất to. Vì thế mà “đầy túi quần thông cáo, đầy túi áo chỉ thị” mà công việc vẫn không chạy”[6].
Thứ tư, sử dụng cách thức tự phê bình và phê bình trên tinh thần đoàn kết, thương yêu đồng chí để kiểm tra. Quá trình kiểm tra phải gắn với tự phê bình và phê bình để giáo dục, thuyết phục, uốn nắn đảng viên, cán bộ và định hướng công tác lãnh đạo của các tổ chức, cơ sở, tạo điều kiện phát huy dân chủ trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng và cơ quan quản lý của Nhà nước. Công tác kiểm tra gắn với tự phê bình và phê bình là một giải pháp khoa học nhằm làm cho mỗi tổ chức, cơ sở vững mạnh, cán bộ, đảng viên luôn giữ vững định hướng chính trị, nhận thức tư tưởng, trau dồi phẩm chất đạo đức trong sáng; đồng thời, chủ động cảnh báo, phòng ngừa, ngăn chặn hành vi vi phạm của cán bộ, đảng viên trong quá trình công tác. Do đó, đối với cán bộ làm công tác kiểm tra, Người đã lưu ý và nhấn mạnh: “Đặc biệt là phải nâng cao ý thức tổ chức và kỷ luật, phải thật thà phê bình và tự phê bình để làm gương mẫu trong việc chấp hành kỷ luật của Đảng... Như thế thì mới làm tốt được công tác kiểm tra”[7].
Thứ năm, trong quá trình kiểm tra cần phải thực hiện kiểm tra từ trên xuống và từ dưới lên. Kiểm tra từ trên xuống nghĩa là người lãnh đạo kiểm tra kết quả công việc của cán bộ mình quản lý; còn kiểm tra từ dưới lên tức là quần chúng Nhân dân và cán bộ cấp dưới kiểm soát công tác lãnh đạo, quản lý của cán bộ cấp trên, đề xuất giải pháp khắc phục, sửa chữa nếu phát hiện thấy hạn chế, sai lầm, khuyết điểm.
Đặc biệt, kiểm tra đi liền với công tác kỷ luật của Đảng. Bởi theo Người, “Đảng ta là một Đảng rất to lớn, bao gồm các tầng lớp trong xã hội. Vì vậy có nhiều tính cách rất trung thành, rất kiên quyết, rất vĩ đại. Song cũng không tránh khỏi những tập tục, những tính nết, những khuyết điểm của xã hội bên ngoài, nó lây ngấm vào trong Đảng”. Do vậy, kỷ luật trong đảng là một tất yếu khách quan, để ngăn chặn khuyết điểm, sai lầm; sửa chữa thói hư, tật xấu; thải loại những kẻ thoái hóa, biến chất; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Kỷ luật của Đảng là “kỷ luật sắt, nghĩa là nghiêm túc và tự giác”, ai ai cũng phải phục tùng kỷ luật và chịu các hình thức kỷ luật (nếu như có khuyết điểm sai lầm). Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện rõ tính dân chủ, lòng bao dung, độ lượng rất sâu sắc. Người quan niệm: Người đời ai cũng có khuyết điểm. Có làm việc thì có sai lầm. Chúng ta không sợ có sai lầm và khuyết điểm, chỉ sợ không chịu cố gắng sửa chữa và cũng sợ những người lãnh đạo không biết tìm cách đúng để giúp cán bộ sửa chữa những khuyết điểm sai lầm. Phải căn cứ vào nội dung, tính chất, mức độ vi phạm để có hình thức kỷ luật thích đáng. Bác chỉ rõ “Sửa chữa sai lầm cố nhiên cần dùng cách giải thích, thuyết phục, cảm hóa, dạy bảo. Song không phải tuyệt nhiên không dùng xử phạt. Lầm lỗi có việc to, việc nhỏ. Nếu nhất loạt không xử phạt thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho bọn cố ý phá hoại. Vì vậy, hoàn toàn không dùng xử phạt là không đúng”[8]. Để đảm bảo xử phạt chính xác, cần phân tích rõ ràng các nguyên nhân dẫn đến sai lầm, khuyết điểm, phải xét kỹ lưỡng tính chất của sai phạm để quyết định hình thức kỷ luật. Muốn vậy, phải làm tốt công tác thẩm tra xác minh, mặt khác phải nhấn mạnh đến biện pháp dân chủ, đề cao tự phê bình và phê bình nhằm làm cho kỷ luật đạt được mục đích, để người có lỗi lầm “tâm phục, khẩu phục”. Phương châm thi hành kỷ luật trong Đảng phải công minh, chính xác, kịp thời và bảo đảm dân chủ. Mọi vi phạm đều phải được xem xét, nếu đến mức phải thi hành kỷ luật thì xử lý thích đáng, không được che đậy, thiên lệch, nể nang.
2. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành mệnh lệnh hành động xuyên suốt trong các chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Ở mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, công tác kiểm tra, kỷ luật đều được quan tâm và điều chỉnh phù hợp về chức năng, nhiệm vụ để thực hiện hiệu quả công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các hành vi vi phạm pháp luật trong hoạt động quản lý nhà nước.
Ngay tại Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam thông qua tại Hội nghị thành lập Đảng tháng 2 năm 1930, kỷ luật Đảng trở thành 1 trong 6 nội dung lớn được đề cập lúc bấy giờ: “V- Kỷ luật: Trách nhiệm của các đảng viên và các đảng bộ là giữ theo kỷ luật của Đảng. Nếu không chấp hành những nghị quyết của Đảng, hoặc phạm những điều mà đảng cho là sai lầm thì do đảng bộ mình lấy quy luật mà xử phạt chỉ trích, giải tán uỷ viên, giải tán cả đảng bộ, tạm thời không cho làm việc trọng yếu của Đảng, khai trừ tạm thời hoặc vĩnh viễn. Nghị quyết khai trừ phải đăng vào báo cáo đảng”. Kể từ đó, kiểm tra, kỷ luật Đảng là hoạt động không thể thiếu trong hoạt động lãnh đạo, diễn ra trong tất cả các khâu của quy trình lãnh đạo... Trước yêu cầu khách quan và tình hình thực tế công tác đổi mới việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng đòi hỏi Đảng ta cần cả “sự giám sát trong nội bộ Đảng” và cả “chịu sự giám sát của Nhân dân” thì sẽ giúp cho việc ngăn chặn sự suy thoái về tư tưởng chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, tình trạng quan liêu, tham nhũng, tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức; tăng cường kỷ cương, kỷ luật của Đảng, ngăn ngừa các nguy cơ của Đảng cầm quyền; góp phần đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên. Do vậy, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX và các Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6, lần thứ 9 khoá IX đã đề ra nhiệm vụ và trách nhiệm giám sát của các cấp ủy, tổ chức đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã bổ sung thêm nội dung giám sát vào Điều lệ Đảng cùng với công tác kiểm tra: “Điều 30, Điều 32 về chức năng, nhiệm vụ kiểm tra, giám sát cho các cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra các cấp”. Kể từ Đại hội X, công tác kiểm tra, kỷ luật đảng được bổ sung, hoàn thiện trở thành công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng.
Suốt chặng đường cách mạng của Đảng, việc vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, kỷ luật của Đảng thể hiện chủ yếu trên ba mặt sau: Một là, trong Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định của Đảng; Hai là, trong hoạt động thực tiễn của Đảng nói chung và của ủy ban kiểm tra, đội ngũ cán bộ kiểm tra nói riêng; Ba là, trong việc tổng kết, đánh giá công tác xây dựng Đảng, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng hằng năm và các nhiệm kỳ. Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng ta đã khẳng định: “Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng được tăng cường, có nhiều đổi mới, đạt kết quả quan trọng; chất lượng, hiệu lực, hiệu quả được nâng lên. Hoạt động kiểm tra, giám sát của cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp được đẩy mạnh, đạt kết quả khá toàn diện, nhất là cấp Trung ương. Qua công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, kỷ cương, kỷ luật Đảng được siết chặt hơn, có tác dụng cảnh báo, cảnh tỉnh, răn đe, phòng ngừa sai phạm đối với tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên”[9].
Để thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm tra, giám sát, kỷ luật, Đảng ta đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết, quy định quan trọng[10]. Đây là cơ sở chính trị, pháp lý quan trọng để hiện thực hóa Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng vào cuộc sống và thực hiện thống nhất trong toàn Đảng. Đồng thời, hoạt động xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng cũng là góp phần hoàn thiện phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng trong tình hình mới. Cụ thể hóa nguyên tắc về phân cấp, phân quyền và kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực để thực hiện thống nhất, đồng bộ trong Đảng và trong hệ thống chính trị, tránh bị chồng chéo. Qua đó, đã tạo chuyển biến tích cực về nhận thức của cán bộ, đảng viên, trước hết là người đứng đầu cấp uỷ, tổ chức đảng về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật góp phần quan trọng vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, giữ vững kỷ luật, kỷ cương, sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, củng cố, tăng cường niềm tin của Nhân dân đối với Đảng.
Với ý chí, quyết tâm rất cao, bằng tinh thần "tiền hô hậu ủng", "nhất hô bá ứng", "trên dưới đồng lòng", "dọc ngang thông suốt", Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai tổ chức thực hiện một cách quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng để thực thi kỷ luật đảng với quan điểm nhất quán là "không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai; và không chịu sức ép của bất kỳ tổ chức, cá nhân nào". Đảng ta đang quyết tâm, quyết liệt, kiên quyết, kiên trì loại bỏ “những con sâu bỏ rầu nồi canh”, kiên định quan điểm “chặt cành để cứu cây” và tẩy khử ung nhọt để phòng, chống mầm mống của những căn bệnh nan y, không để nó di căn hoặc lây lan. Những kết quả đạt được đã tự nó tạo ra sức mạnh cảm hóa, góp phần củng cố, vun đắp niềm tin cho cán bộ và quần chúng vào sự lãnh đạo của Đảng; vào tính nghiêm minh của kỷ luật đảng và tinh thần trách nhiệm rất cao của những người làm công tác kiểm tra, giám sát, thi hành kỷ luật đảng.
Đáng chú ý, sự phối hợp giữa kiểm tra, giám sát của Đảng với Thanh tra, Kiểm toán Nhà nước và điều tra, truy tố, xét xử ngày càng chặt chẽ, đồng bộ, hiệu quả hơn, hạn chế sự chồng chéo trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các sai phạm, siết chặt kỷ luật, kỷ cương trong Đảng và hệ thống chính trị. Cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã tăng cường chỉ đạo, tích cực, chủ động, quyết liệt, có trọng tâm, trọng điểm, tập trung kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, lựa chọn đối tượng, lĩnh vực, địa bàn dễ phát sinh tiêu cực, tham nhũng, những vấn đề bức xúc mà cán bộ, đảng viên và Nhân dân quan tâm để kiểm tra, giám sát. Theo số liệu tổng kết 10 năm công tác phòng, chống tham nhũng, từ 01/7/2012 - 31/3/2022, qua công tác kiểm tra, giám sát, cấp ủy, ủy ban kiểm tra các cấp đã thi hành kỷ luật 2.741 tổ chức đảng, 17.748 đảng viên; trong đó, có 7.393 đảng viên bị thi hành kỷ luật do tham nhũng, cố ý làm trái. Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy ban Kiểm tra Trung ương và cấp ủy có thẩm quyền đã thi hành kỷ luật hơn 170 cán bộ diện Trung ương quản lý, trong đó có 33 đồng chí là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, nguyên Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, hơn 50 sỹ quan cấp tướng trong lực lượng vũ trang. Riêng từ sau Đại hội XIII của Đảng đến tháng 6/2022 đã thi hành kỷ luật 50 cán bộ diện Trung ương quản lý. Trong đó có 08 ủy viên và nguyên Ủy viên Trung ương, 20 sỹ quan cấp tướng[11]. Cùng với kỷ luật của Đảng, các cơ quan nhà nước đã tiến hành kỷ luật hành chính tương xứng, đảm bảo kịp thời, đồng bộ giữa kỷ luật của Đảng và kỷ luật của Nhà nước, kỷ luật của đoàn thể và xử lý hình sự. Đây là bước đột phá trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng, góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; đồng thời khẳng định quyết tâm chính trị rất cao, hành động kiên quyết, kiên trì, không ngừng, không nghỉ của các cấp, các ngành, tạo động lực to lớn cho cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực.
Tuy nhiên, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng cũng còn không ít tồn tại, hạn chế, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu trong tình hình mới, chất lượng, hiệu quả chưa đồng đều ở các cấp. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng chỉ rõ: Công tác kiểm tra ở một số nơi thiếu trọng tâm, trọng điểm; việc tự kiểm tra, phát hiện và xử lý vi phạm của nhiều cấp ủy, tổ chức đảng vẫn là khâu yếu; còn nhiều tổ chức đảng và đảng viên có vi phạm nhưng chưa được phát hiện kịp thời; trong công tác kiểm tra, giám sát của các cơ quan tham mưu giúp việc các cấp chưa thường xuyên, có nơi, có lúc chưa thực chất, phạm vi, đối tượng còn hẹp; hiệu quả cảnh báo, phòng ngừa vi phạm còn hạn chế. Việc thi hành kỷ luật ở một số nơi chưa nghiêm, còn hiện tượng nể nang, ngại va chạm.
Xuất phát từ thực tế của Đảng, của đất nước và quốc tế ngày nay, để chủ động học tập, nhận thức lại, bổ sung, phát triển và thực hành một cách sáng tạo “tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình” và những chân lý phổ biến của tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra, kỷ luật đảng, Đảng ta cần tổng kết thực tiễn và tiếp tục xây dựng lý luận công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng trong bối cảnh mới, trong đó chú trọng các giải pháp sau:
Thứ nhất, phải nâng cao nhận thức của tổ chức đảng và đảng viên về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật thông qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục tác động vào nhận thức của cán bộ, đảng viên tổ chức đảng và quần chúng Nhân dân. Thông qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục về vai trò của công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật để cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và quần chúng Nhân dân nhận thức được vai trò quan trọng của mình góp phần đắc lực giúp tổ chức đảng tại đơn vị, cơ quan và nơi sinh sống làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật. Nắm vững được các quy định của Đảng, quy chế, quy trình trong hoạt động kiểm tra, giám sát và quan điểm, đường lối của Đảng trong thực hiện các nhiệm vụ, chức năng trong kiểm tra, giám sát, kỷ luật.
Thứ hai, phải coi kiểm tra, giám sát trong Đảng là một nhiệm vụ trọng tâm, xây dựng quy trình chuẩn, đồng bộ và có tính hệ thống để tất cả cán bộ, đảng viên, tổ chức đảng và quần chúng Nhân dân nắm được. Và công tác này phải được tiến hành một cách thường xuyên và đồng bộ từ trên xuống dưới, tránh tình trạng thực hiện qua loa, chiếu lệ hoặc coi nhẹ công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
Thứ ba, phải nhấn mạnh đến yếu tố con người theo đúng lời căn dặn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lựa chọn cán bộ sai thì sẽ dẫn đến việc thực hiện đường lối, chính sách cũng sai. Vì vậy, cán bộ làm công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật phải là những con người ưu tú, tiêu biểu về chính trị, tư tưởng, đạo đức, phải là những con người vừa “hồng”, vừa “chuyên”, bởi kiểm tra, giám sát, kỷ luật là một công việc khó khăn, phức tạp và có tính nhạy cảm cách mạng cao vì vậy đòi hỏi người làm công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật không chỉ giỏi về chuyên môn mà còn phải tinh tế, nhạy bén, hết mình vì lợi ích chung, phải là những con người có đạo đức cách mạng trong sách, có lý trí cách mạng vững vàng, kiên cường.
Thứ tư, việc xây dựng chương trình, kế hoạch, mục đích công tác kiểm tra, giám sát phải trọng tâm, đúng thời điểm, phải sát và trúng. Điều này để thực hiện được không phải là dễ dàng vì vậy phải có sự kết hợp giữa các cơ quan, ban ngành, các tổ chức đảng và đảng viên trong việc thực hiện công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
Thứ năm, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật muốn thực hiện được tốt, được trúng và đúng phải có sự hỗ trợ của quần chúng Nhân dân. Bởi ở đâu, khi nào nếu có được sự đồng lòng của quần chúng Nhân dân thì mọi việc sẽ được thực hiện một cách trơn tru, dễ dàng. Công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật là một hoạt động không nằm ngoài quy luật đó. Bất cứ mọi hoạt động nào của cán bộ, đảng viên và tổ chức đảng cũng không bao giờ qua được con mắt của quần chúng Nhân dân. Vì vậy, trong việc thực hiện công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật nếu được sự đồng lòng ủng hộ của quần chúng Nhân dân sẽ mang lại nhiều hiệu quả thiết thực.
Thứ sáu, công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật cần được tiến hành đồng bộ, nhất quán từ trên xuống dưới theo phương châm “Trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”, không có vùng cấm, không có ngoại lệ.
Thứ bảy, công tác kiểm tra, giám sát phải kịp thời phát hiện nhân tố mới, tích cực để phát huy, phải bảo vệ cái đúng, bảo vệ người tốt, cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đột phá vì lợi ích chung; phải chủ động phát hiện sớm để phòng ngừa, ngăn chặn, khắc phục vi phạm, khuyết điểm của tổ chức đảng và đảng viên ngay từ khi còn mới manh nha, không để vi phạm nhỏ tích tụ thành sai phạm lớn, kéo dài và lan rộng. Khi các vụ việc vi phạm được phát hiện, phải cương quyết xử lý kỷ luật nghiêm minh, kịp thời để răn đe, giáo dục. Trong bối cảnh thực hiện đường lối đổi mới toàn diện, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chủ động hội nhập quốc tế, Đảng luôn khuyến khích, tạo điều kiện để cán bộ, đảng viên tìm tòi, năng động, sáng tạo; đồng thời, đề cao bảo vệ lẽ phải, bảo vệ người tốt, bảo vệ những cán bộ hết mình vì sự nghiệp chung. Mặt khác, khắc phục tư tưởng ỷ lại, cho rằng việc xử lý các vụ việc qua công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng, công tác phòng, chống tham nhũng đã làm nhụt chí phấn đấu của cán bộ, đảng viên; ngược lại, có làm tốt, có chủ động phát hiện vi phạm khi mới manh nha, nếu vi phạm đến mức xử lý thì kiên quyết xử lý nghiêm minh, kịp thời mới hạn chế được vi phạm, từ đó nâng cao uy tín của Đảng và cơ quan Nhà nước, góp phần phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác kiểm tra là một hệ thống những tư tưởng quan trọng và có ý nghĩa phương pháp luận đối với công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật của Đảng hiện nay nói riêng và của công tác xây dựng đảng nói chung. Những quan điểm, tư tưởng của Người về công tác kiểm tra, kỷ luật đến nay vẫn còn nguyên tính thời sự và giá trị cả về lý luận, thực tiễn, là những định hướng quý báu và quan trọng trong công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật. Vận dụng tư tưởng của Người vào công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay chắc chắn Đảng ta sẽ ngày một vững vàng và phát triển, xứng đáng là Đảng lãnh đạo đất nước và toàn dân tộc đi đến bến bờ của thắng lợi./.
[1] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, tr. 636
[2] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 362
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 325-326
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr.637
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 636-637
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 5, tr. 636-637
[7] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 363 - 364
[8] Hồ Chí Minh, toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 284.
[9] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t. II, tr. 197 - 198
[10] Nghị quyết số 14-NQ/TW, ngày 30/7/2007, Hội nghị Trung ương 5 khóa X về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng; Chỉ thị số 29-CT/TW, ngày 14/02/1998 của Bộ Chính trị khóa VIII về tăng cường công tác kiểm tra của Đảng; Quy định số 86-QĐ/TW ngày 01/6/2017 của Bộ Chính trị khóa XII về giám sát trong Đảng; Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28/7/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; Hướng dẫn số 02-HD/TW, ngày 09/12/2021 của Ban Bí thư thực hiện một số nội dung Quy định số 22-QĐ/TW, ngày 28/7/2021, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng; Kết luận số 34/KL-TW ngày 18/4/2022 của Bộ Chính trị về Chiến lược công tác kiểm tra, giám sát của Đảng đến năm 2030; Quy định số 69-QĐ/TW ngày 06/7/2022 của Bộ Chính trị khóa XIII về xử lý kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên vi phạm; Nghị quyết số 28-NQ/TW ngày 17/11/2022 Hội nghị lần thứ 6 Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới…
[11] Dẫn theo https://nghean.dcs.vn/vi-vn/tin/toan-van-bai-phat-bieu-cua-tong-bi-thu-nguyen-phu-trong-tai-hoi-nghi-tong-ket-10-nam-cong-tac-phong--chong-tham-nhung--tieu-cuc/277354-500969-13431