Kỷ niệm 205 năm Ngày sinh Ph.Ăng-ghen (28/11/1820 - 28/11/2025): Ý nghĩa của Di sản Ph.Ăng-ghen và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay
27/11/2025 10:37
Di sản của Ph.Ăng-ghen gắn bó chặt chẽ với giá trị di sản tư tưởng của C.Mác, cùng tạo nên nền tảng của chủ nghĩa xã hội khoa học. Sự thống nhất giữa hai ông thể hiện ở cách tiếp cận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, ở mục tiêu hướng tới giải phóng con người và xây dựng một xã hội mới. Những giá trị ấy không chỉ là cơ sở lý luận mà còn là định hướng phương pháp luận quan trọng cho quá trình nhận thức và cải tạo xã hội...
GVC,TS. Nguyễn Văn Điều
Khoa Lý luận cơ sở, Trường Chính trị tỉnh Nghệ An
Tóm tắt: Di sản của Ph.Ăng-ghen gắn bó chặt chẽ với giá trị di sản tư tưởng của C.Mác, cùng tạo nên nền tảng của chủ nghĩa xã hội khoa học. Sự thống nhất giữa hai ông thể hiện ở cách tiếp cận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, ở mục tiêu hướng tới giải phóng con người và xây dựng một xã hội mới. Những giá trị ấy không chỉ là cơ sở lý luận mà còn là định hướng phương pháp luận quan trọng cho quá trình nhận thức và cải tạo xã hội. Trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa và vận dụng tinh thần cốt lõi từ hệ tư tưởng Ph.Ăng-ghen, coi đó là nền tảng để xác định con đường phát triển, củng cố niềm tin và định hình mục tiêu chiến lược phù hợp với thực tiễn đất nước.
Từ khoá: Di sản Ph.Ăng-ghen; Vận dụng; Xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1. Ph.Ăng-ghen - nhà lý luận lớn của giai cấp công nhân
Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, Ph.Ăng-ghen được ghi nhận là một trong những nhà lý luận vĩ đại nhất của giai cấp công nhân và phong trào cách mạng thế giới. Ông không chỉ là người bạn chiến đấu thân thiết của C.Mác mà còn là đồng sáng lập và đồng kiến tạo hệ thống lý luận mang tính cách mạng, có sức sống lâu bền của chủ nghĩa xã hội khoa học. Do đó, khi nghiên cứu di sản của chủ nghĩa Mác, các nhà khoa học lý luận khẳng định: “chủ nghĩa Mác trên tất cả các phương diện cấu thành của nó, từ nội dung đến phương pháp, từ những mầm mống đầu tiên đến khi có một diện mạo trưởng thành, từ những luận chiến đanh thép để tự bảo vệ trước những đòn tấn công, xuyên tạc của kẻ thù cho đến những tổng kết thực tiễn đặc sắc và những dự báo khoa học về xã hội tương lai đều in đậm dấu ấn những đóng góp kiệt xuất của Ph. Ăng-ghen”[1]. Những đóng góp của Ph.Ăng-ghen đã vượt ra khỏi khuôn khổ của một nhà tư tưởng thuần túy; ông là người kết hợp hài hòa giữa nghiên cứu lý luận với tổng kết thực tiễn, giữa hiểu biết sâu rộng về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội với sự nhạy bén trong phân tích kinh tế - chính trị. Bởi vậy, ông xứng đáng được tôn vinh là một trong những nhà lý luận xuất sắc nhất của giai cấp công nhân hiện đại.
Sinh ra trong hoàn cảnh một gia đình tư sản, Ph.Ăng-ghen sớm tiếp xúc với hiện thực xã hội tư bản đang chuyển biến mạnh mẽ dưới tác động của cách mạng công nghiệp. Từ những quan sát thực tiễn tại các trung tâm công nghiệp, đặc biệt là khi sống và làm việc ở Manchester, ông nhận thấy rõ sự đối lập sâu sắc giữa sự phát triển của nền đại công nghiệp và tình cảnh khổ cực của công nhân. Những trải nghiệm này không chỉ khơi dậy trong ông tình cảm nhân đạo mạnh mẽ, mà còn thúc đẩy ông tìm con đường lý luận để lý giải bản chất của xã hội tư bản và sự vận động của nó. Tác phẩm “Tình cảnh giai cấp công nhân Anh” chính là kết quả của sự kết hợp giữa quan sát thực tiễn, khảo cứu rộng rãi và phân tích khoa học; tác phẩm ấy được coi như một trong những công trình kinh điển đầu tiên mô tả toàn diện đời sống của giai cấp công nhân, đồng thời chỉ ra những mâu thuẫn vốn có của xã hội tư bản chủ nghĩa.
Không dừng lại ở việc phản ánh hiện thực, Ph.Ăng-ghen cùng với C.Mac đã xây dựng một hệ thống lý luận có tính cách mạng sâu sắc. Nếu C.Mac được coi là thiên tài xây dựng nền tảng lý luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử và kinh tế chính trị học, thì Ph.Ăng-ghen là người phát triển, mở rộng và hệ thống hóa những tư tưởng đó bằng tư duy sắc sảo và khả năng diễn đạt mạch lạc. Sự gắn bó của ông với Mac không phải chỉ là tình bạn, mà là sự cộng tác lý luận trong suốt hơn bốn thập kỷ. Ăng-ghen đã góp phần quan trọng trong việc hình thành những tác phẩm lớn như: Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản; Gia đình, chế độ tư hữu và nhà nước, cũng như trong việc biên tập, xuất bản các tập II và III của bộ Tư bản sau khi Mac qua đời. Công việc ấy đòi hỏi một trí tuệ lớn, một sự hiểu biết thấu đáo về kinh tế chính trị và một bản lĩnh lý luận hiếm có. Chính vì vậy, sau này khi phát triển di sản của chủ nghĩa Mác trong thực tiễn phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, V.I.Lênin đã khẳng định: “Không thể nào hiểu được chủ nghĩa Mác và trình bày đầy đủ được chủ nghĩa Mác, nếu không chú ý đến toàn bộ những tác phẩm của Ph.Ăng-ghen”[2].
Điểm nổi bật nhất làm nên vai trò của Ăngghen với tư cách là nhà lý luận của giai cấp công nhân chính là sự nhất quán giữa tư tưởng và hành động. Ông không chỉ nghiên cứu vì tri thức, mà nghiên cứu để hành động, để góp phần giải phóng giai cấp công nhân và cải tạo xã hội. Ông tham gia các hoạt động cách mạng, viết báo, tổ chức lực lượng, trực tiếp đứng trong hàng ngũ đấu tranh của phong trào công nhân. Trong những năm Mac gặp khó khăn về tài chính, chính Ăng-ghen là người đã hỗ trợ, đảm bảo điều kiện để C.Mac có thể tập trung hoàn toàn vào nghiên cứu. Điều đó không chỉ thể hiện sự hy sinh và trung thành của ông đối với sự nghiệp chung, mà còn khẳng định phẩm chất của một nhà cách mạng chân chính.
Những đóng góp của Ph.Ăng-ghen mang giá trị bền vững đối với sự phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Ông là người tham gia sáng lập và lãnh đạo Quốc tế I, góp phần định hình phương hướng đấu tranh của giai cấp công nhân thế giới. Các tác phẩm lý luận của ông, với nội dung phong phú và hệ thống lập luận chặt chẽ, vẫn giữ nguyên giá trị đối với việc phân tích những biến động kinh tế - xã hội đương đại. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự chuyển dịch cơ cấu lao động, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công nghệ, và những vấn đề mới của đời sống xã hội, những luận điểm của Ph.Ăng-ghen về sự vận động của xã hội, mâu thuẫn giai cấp, vai trò của lao động và quy luật phát triển vẫn có giá trị tham chiếu quan trọng.
Với tất cả những đóng góp ấy, Ph.Ăng-ghen xứng đáng được tôn vinh là nhà lý luận lớn của giai cấp công nhân. Ông không chỉ đồng hành cùng C.Mac trong việc xây dựng nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa xã hội khoa học, mà còn là người phát triển, hệ thống hóa và truyền bá lý luận ấy một cách sâu sắc, sáng tạo. Tư tưởng của ông tiếp tục là ngọn đèn soi đường cho phong trào cách mạng thế giới, đồng thời là nguồn cảm hứng cho các thế hệ nghiên cứu lý luận ngày nay.
2. Những giá trị cốt lõi trong di sản của Ph.Ăgghen đối với chủ nghĩa xã hội khoa học
Di sản lý luận của Ph.Ăng-ghen có tầm ảnh hưởng sâu rộng đối với sự hình thành, phát triển lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học. Những giá trị cốt lõi mà ông để lại không chỉ góp phần làm sáng tỏ bản chất của xã hội tư bản chủ nghĩa, mà còn cung cấp cơ sở khoa học cho con đường đấu tranh của giai cấp công nhân trong tiến trình xây dựng xã hội mới. Ở nhiều phương diện, tư tưởng của Ph.Ăng-ghen đã trở thành nền tảng phương pháp luận, là kim chỉ nam cho các tổ chức cách mạng và phong trào công nhân ở nhiều quốc gia.
Thứ nhất, giá trị cốt lõi trong di sản của Ph.Ăng-ghen là sự hoàn thiện và phát triển phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử. Ông cùng với C.Mac đã chỉ ra rằng, sự vận động của lịch sử loài người không phải là chuỗi sự kiện ngẫu nhiên mà là quá trình phát triển tuân theo quy luật khách quan. Sự biến đổi của hình thái kinh tế - xã hội gắn liền với sự phát triển của lực lượng sản xuất, với đấu tranh giữa các giai cấp đối lập. Từ đó, phong trào cộng sản quốc tế có được công cụ lý luận sắc bén để phân tích xã hội, nhận diện mâu thuẫn chủ yếu, xác định động lực và mục tiêu của cuộc đấu tranh cách mạng. Chính phương pháp luận này đã dẫn dắt nhiều phong trào cách mạng vượt qua những khủng hoảng nhận thức, tránh những xu hướng lệch lạc, giáo điều hoặc duy ý chí.
Thứ hai, giá trị quan trọng khác trong tư tưởng của Ph.Ăng-ghen là việc khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, vì “Tất cả các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai cấp vô sản là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”[3]. Ông coi giai cấp công nhân không chỉ là sản phẩm của nền đại công nghiệp, mà còn là lực lượng xã hội duy nhất có khả năng lãnh đạo cuộc đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản, thiết lập xã hội mới. Những phân tích của ông về sự hình thành, đặc điểm và sức mạnh cách mạng của giai cấp công nhân đã giúp phong trào cộng sản quốc tế nhận thức rõ hơn về lực lượng trung tâm của cách mạng vô sản. Sự khẳng định đó đã tạo cơ sở lý luận cho việc tổ chức phong trào công nhân, xây dựng các chính đảng kiểu mới và củng cố mối liên hệ giữa lý luận với thực tiễn đấu tranh của giai cấp lao động.
Thứ ba, di sản của Ph.Ăng-ghen còn thể hiện rõ ở quan điểm của ông về vai trò của tổ chức và tính kỷ luật trong phong trào cách mạng. Từ những trải nghiệm trực tiếp trong hoạt động cách mạng và đặc biệt qua sự tham gia lãnh đạo Quốc tế I, Ăng-ghen nhấn mạnh rằng, sự thắng lợi của phong trào công nhân không thể đạt được nếu thiếu một tổ chức chính trị đủ mạnh, có kỷ luật, có cương lĩnh rõ ràng và có khả năng tập hợp quần chúng. Ông viết: “Những người cộng sản chỉ khác với các đảng vô sản trên hai điểm: một là, trong các cuộc đấu tranh của những người vô sản thuộc các dân tộc khác nhau, họ đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản; hai là, trong các giai đoạn khác nhau của cuộc đấu tranh giữa vô sản và tư sản, họ luôn đại biểu cho lợi ích của toàn bộ phong trào”[4]. Quan điểm này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển của các đảng Cộng sản sau này, khi họ phải đối mặt với nhiệm vụ tổ chức lực lượng công nhân một cách hiệu quả và khoa học để đối phó với những lực lượng phản cách mạng.
Thứ tư, Ph.Ăng-ghen để lại những giá trị cốt lõi đối với phong trào Cộng sản quốc tế thông qua các quan điểm của ông về chủ nghĩa quốc tế vô sản. Ông khẳng định rằng giai cấp công nhân không có Tổ quốc theo nghĩa hẹp của những quốc gia tư sản, và cuộc đấu tranh của họ mang tính quốc tế sâu sắc. Chính tư tưởng ấy đã tạo cơ sở lý luận cho sự đoàn kết giữa các lực lượng cách mạng trên toàn thế giới, thúc đẩy tinh thần tương trợ lẫn nhau trong đấu tranh chống áp bức và bóc lột. Cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân ở mỗi nước, theo Ph.Ăng-ghen, vừa mang tính dân tộc vừa mang tính quốc tế, gắn liền với cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân toàn thế giới. Tinh thần này đã trở thành một trong những nền tảng tư tưởng của Quốc tế I, Quốc tế II, Quốc tế III và nhiều phong trào giải phóng dân tộc trong thế kỷ XX.
Thứ năm, một giá trị cốt lõi khác trong di sản của Ph.Ăng-ghen là tư duy khoa học và tinh thần biện chứng linh hoạt. Ph.Ăng-ghen viết: “Nếu người ta đặt câu hỏi rằng tư duy và ý thức là gì, chúng từ đâu đến, thì người ta thấy rằng chúng là sản vật của bộ óc con người và bản thân con người, là sản vật của giới tự nhiên, một sản vật đã phát triển trong một môi trường nhất định và cùng với môi trường đó. Vì vậy, lẽ tự nhiên là những sản vật của bộ óc con người, - quy đến cùng cũng là những sản vật của giới tự nhiên - không mâu thuẫn mà lại còn phù hợp với mối liên hệ còn lại của giới tự nhiên”[5]. Ông luôn yêu cầu phong trào cộng sản phải gắn lý luận với thực tiễn, phải biết tổng kết thực tiễn, vận dụng sáng tạo, tránh rập khuôn máy móc. Quan điểm đó có ý nghĩa đặc biệt đối với phong trào cộng sản quốc tế khi phải đối mặt với những biến đổi chưa từng có trong xã hội hiện đại. Những cảnh báo của ông về xu hướng giáo điều, cực đoan hoặc tách rời quần chúng là bài học sâu sắc còn nguyên giá trị. Nhờ di sản ấy, các Đảng Cộng sản trong nhiều giai đoạn lịch sử đã có cơ sở để tìm ra phương pháp phát triển linh hoạt, phù hợp với điều kiện của mỗi quốc gia.
Hơn nữa, không thể không nhắc đến đóng góp của Ăng-ghen trong việc bảo vệ và phát triển hệ thống lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học sau khi Mac qua đời. Trong nhiều thập kỷ, ông là người giữ vai trò trụ cột trong việc phổ biến, giải thích và bảo vệ tính khoa học của chủ nghĩa Mac trước những luận điệu xuyên tạc hoặc những diễn giải sai lệch. Qua việc biên tập các tập cuối của bộ Tư bản, viết các tác phẩm lý luận và tham gia tổng kết phong trào công nhân, Ph.Ăng-ghen đã góp phần quan trọng vào việc duy trì sự thống nhất và phát triển của lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học.
Có thể nói, di sản của Ph.Ăng-ghen không chỉ là một hệ thống lý luận đồ sộ, mà còn là nền tảng tư tưởng, phương pháp và định hướng chiến lược cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Những giá trị cốt lõi mà ông để lại tiếp tục có sức sống bền bỉ, trở thành nguồn động lực tinh thần và lý luận cho cuộc đấu tranh vì hòa bình, công bằng, tiến bộ xã hội và chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng di sản của Ph.Ăng-ghen trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay
Di sản tư tưởng của Ph.Ăng-ghen, với tính khoa học và cách mạng sâu sắc, luôn giữ vị trí quan trọng trong nền tảng lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã kiên định vận dụng, đồng thời phát triển sáng tạo những giá trị cốt lõi mà Ăng-ghen để lại, phù hợp với điều kiện lịch sử, văn hóa và nhu cầu phát triển của dân tộc. Từ các quan điểm phương pháp luận đến những tư tưởng về vai trò của giai cấp công nhân, tổ chức chính trị, nhà nước và tiến trình phát triển xã hội, Đảng luôn tiếp cận một cách biện chứng, không giáo điều, coi đó là cơ sở để hoạch định đường lối xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh mới.
Một là, Đảng vận dụng phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, những giá trị trung tâm trong tư tưởng của Ăng-ghen để phân tích, nhận diện quy luật vận động của xã hội Việt Nam trong quá trình đổi mới và hội nhập. Từ việc khẳng định phát triển kinh tế là trung tâm, xây dựng Đảng là then chốt, đến xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội và phát triển con người là mục tiêu cao nhất, Đảng đều dựa trên cách tiếp cận biện chứng toàn diện, xem xét sự tác động qua lại giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội. Tinh thần duy vật biện chứng giúp Đảng tránh rơi vào giản đơn hóa hoặc duy ý chí, đồng thời mở đường cho những quyết sách linh hoạt, phù hợp với yêu cầu phát triển trong từng giai đoạn.
Hai là, vận dụng tư tưởng của Ph.Ăng-ghen về vai trò giai cấp công nhân, Đảng luôn xác định giai cấp công nhân Việt Nam là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Trong bối cảnh chuyển đổi số, cách mạng công nghiệp lần thứ tư và sự biến đổi của quan hệ lao động, Đảng coi nhiệm vụ xây dựng giai cấp công nhân hiện đại là trung tâm của chiến lược phát triển lực lượng sản xuất. Điều này không chỉ thể hiện sự kế thừa tư tưởng của Ăng-ghen về vai trò lịch sử của giai cấp công nhân, mà còn phản ánh cách vận dụng sáng tạo, phù hợp với đặc điểm của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Ba là, Đảng cũng vận dụng sâu sắc quan điểm của Ăng-ghen về vai trò của tổ chức chính trị và tính kỷ luật trong phong trào cách mạng. Sự khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội được đặt trên nền tảng nhận thức rằng, chỉ có một tổ chức chính trị tiên phong, có trí tuệ, bản lĩnh và đạo đức cách mạng mới có khả năng tập hợp, dẫn dắt toàn dân tộc trong thời đại biến động phức tạp. Việc đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng; nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu; kiên quyết chống suy thoái và tham nhũng cũng chính là sự tiếp nối tư tưởng của Ăng-ghen về yêu cầu giữ vững tính kỷ luật, sự trong sạch và tính chiến đấu của đội ngũ những người chiến sĩ cộng sản chân chính vì mục tiêu xã hội chủ nghĩa.
Bốn là, trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay, Đảng còn đặc biệt chú trọng vận dụng tư tưởng của Ph.Ăng-ghen về mối quan hệ giữa kinh tế và xã hội. Theo tinh thần đó, phát triển kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội. Hướng phát triển mà Đảng xác định tăng trưởng đi đôi với phát triển con người, bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống của nhân dân, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo, phản ánh cách tiếp cận biện chứng mà Ph.Ăng-ghen đã đề xuất về mối quan hệ giữa cơ sở kinh tế và kiến trúc thượng tầng. Chính quan điểm này giúp Việt Nam kiên định mục tiêu tăng trưởng bền vững, phát triển bao trùm và nhân văn, không để ai bị bỏ lại phía sau.
Năm là, tư tưởng của Ăng-ghen về chủ nghĩa quốc tế vô sản được Đảng vận dụng linh hoạt trong đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập sâu rộng, Việt Nam kiên trì xây dựng quan hệ hữu nghị, hợp tác bình đẳng với tất cả các quốc gia; đồng thời tích cực tham gia vào các hoạt động quốc tế, đóng góp vào hòa bình, ổn định và phát triển chung của khu vực và thế giới. Những định hướng ấy phản ánh tinh thần đoàn kết, hợp tác vì lợi ích chung của nhân loại - một giá trị quan trọng trong tư tưởng Ph.Ăng-ghen.
Sáu là, vận dụng di sản của Ph.Ăng-ghen trong công cuộc đổi mới còn thể hiện ở yêu cầu gắn lý luận với thực tiễn, phát triển lý luận trên cơ sở tổng kết thực tiễn cách mạng Việt Nam. Đảng luôn nhấn mạnh cần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện mới, là nền tảng tư tưởng của Đảng. Tinh thần chống giáo điều, chống máy móc, luôn đổi mới sáng tạo, điều mà Ph.Ăng-ghen nhiều lần khẳng định đã trở thành phương châm trong công tác lý luận và hoạch định đường lối của Đảng.
Như vậy, sự vận dụng di sản tư tưởng của Ph.Ăng-ghen trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được thể hiện một cách toàn diện, linh hoạt và sáng tạo. Những giá trị cốt lõi của ông, khi hòa quyện với thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam, tiếp tục trở thành nguồn lực tinh thần và lý luận to lớn, góp phần định hình con đường phát triển độc lập, tự chủ, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng và văn minh./.
[1] Hoàng Chí Bảo: “Cống hiến vĩ đại của Ph. Ăng-ghen trong lịch sử chủ nghĩa Mác và chủ nghĩa xã hội”, trong sách “Giá trị tư tưởng của Ph. Ăng-ghen trong thời đại ngày nay”, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội, 2016, tr. 26
[2] V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, 2005, t. 26, tr.110.
[3] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, 1995, Nxb. CTQG, H, T.4, tr.628.
[4] C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.614.
[5] C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1994, t. 20, tr. 55.