Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về cách lãnh đạo trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc" và vận dụng của Đảng ta
Năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm: "Sửa đổi lối làm việc" với bút danh XYZ. Mục đích của tác phẩm là: nâng cao trình độ lý luận, nâng cao tư tưởng và tình cảm cách mạng, phẩm chất đạo đức, tác phong công tác của người cán bộ cách mạng, năng lực lãnh đạo nhằm đáp ứng các yêu cầu mới của cách mạng. Trong tác phẩm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán “chủ nghĩa cá nhân”...
Năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết tác phẩm: "Sửa đổi lối làm việc" với bút danh XYZ. Mục đích của tác phẩm là: nâng cao trình độ lý luận, nâng cao tư tưởng và tình cảm cách mạng, phẩm chất đạo đức, tác phong công tác của người cán bộ cách mạng, năng lực lãnh đạo nhằm đáp ứng các yêu cầu mới của cách mạng. Trong tác phẩm này, Chủ tịch Hồ Chí Minh phê phán “chủ nghĩa cá nhân” vì đó là một thứ “vi trùng rất độc” nó sinh ra các khuyết điểm nghiêm trọng như bệnh tham lam, lười biếng, kiêu ngạo, ham địa vị, thiếu kỷ luật, óc hẹp hòi, óc địa phương, óc lãnh tụ, bệnh “hữu danh vô thực”, kéo bè, kéo cánh, bệnh cận thị không biết nhìn xa, trông rộng... Đồng thời, Hồ Chí Minh vạch ra nguyên nhân và phương hướng khắc phục.
Chủ tịch Hồ Chí Minh dành toàn bộ mục V để nói về nội dung, phương pháp, phong cách và các kỹ năng lãnh đạo. Trong toàn bộ tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc", phần V - Cách lãnh đạo, có một vị trí quan trọng khi nó đề cập đến vai trò, vị thế, phong cách cần phải có của người cán bộ cách mạng khi họ giữ vị trí lãnh đạo quản lý[1]. Trong tác phẩm, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra các chỉ dẫn hết sức rõ ràng cho người cán bộ trong giai đoạn đấu tranh giải phóng đất nước. Từ cách tiếp cận của khoa học lãnh đạo, có thể thấy, những lập luận cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm này đã đưa ra những gợi ý và định hướng sâu sắc cho việc hình thành kỹ năng, phương pháp lãnh đạo đạt hiệu quả. Lập luận cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh xoay quanh phạm trù: lãnh đạo đúng và những điều kiện để đảm bảo sự lãnh đạo đúng.
Thứ nhất, gắn liền lãnh đạo với ra quyết định, tổ chức thực hiện quyết định và kiểm tra, giám sát việc thực hiện quyết định.
Thứ hai, thực hành hai cách cơ bản trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo: liên hợp chính sách chung với chỉ đạo riêng và liên hợp người lãnh đạo với quần chúng.
Thứ ba, học cách lãnh đạo từ quần chúng để trở lại phục vụ quần chúng.
Hoạt động lãnh đạo không chỉ diễn ra trên bình diện toàn xã hội hay tổ chức chính thức mà có thể diễn ra ở bất kỳ cấp độ hoạt động chung nào. Và chính trong những hoạt động ở cấp độ cơ sở, sát với người dân, năng lực và trách nhiệm của người đảm nhận vai trò lãnh đạo càng thể hiện rõ.
a) Để Đảng “lãnh đạo đúng”
Khi trở thành Đảng cầm quyền, phương thức lãnh đạo của Đảng có sự thay đổi căn bản. Từ một Đảng phải hoạt động bí mật, Đảng trở thành người lãnh đạo toàn diện các lĩnh vực của đời sống xã hội thông qua các nội dung chủ yếu: Lãnh đạo bằng cương lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương lớn; bằng công tác tuyên truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức, kiểm tra, giám sát; bằng công tác cán bộ và hành động gương mẫu của đảng viên. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, để Đảng thực sự đáp ứng vai trò của Đảng cầm quyền là tinh thần nổi bật trong tác phẩm “Sửa đổi lối làm việc”, được Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện tập trung ở mục V- Cách lãnh đạo. Ở chương này, Người nêu rõ cả nội dung lãnh đạo và cách thức, phong cách của người lãnh đạo. Phong cách lãnh đạo đúng đắn quyết định kết quả của sự lãnh đạo. Cần nhận rõ đối tượng lãnh đạo của Đảng trước hết là Nhân dân. Khi Đảng cầm quyền thì đối tượng lãnh đạo còn là chính quyền nhà nước, là cả hệ thống chính trị.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, lãnh đạo là công việc lớn lao của Đảng, quyết định đến thành bại của cách mạng. Lãnh đạo như vai trò cầm lái, dẫn đường. Đó là sự hội tụ của trình độ lý luận, trí tuệ, của sự thấu hiểu thực tiễn, hoàn cảnh của đất nước và cuộc sống, lợi ích của giai cấp, dân tộc và Nhân dân. Lãnh đạo đúng đòi hỏi xử lý các mối quan hệ, nhất là quan hệ giữa chiến lược và sách lược phù hợp với hoàn cảnh cụ thể. Người nhấn mạnh 3 điều bảo đảm sự lãnh đạo đúng:
“1. Phải quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng. Mà muốn thế thì nhất định phải so sánh kinh nghiệm của dân chúng. Vì dân chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự lãnh đạo của ta.
2. Phải tổ chức sự thi hành cho đúng. Mà muốn vậy, không có dân chúng giúp sức thì không xong.
3. Phải tổ chức sự kiểm soát, mà muốn kiểm soát đúng thì cũng phải có quần chúng giúp mới được”[2].
Để quyết định đúng và tổ chức thi hành đúng, Hồ Chí Minh cho rằng, phải xuống cơ sở nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của quần chúng nhân dân, bàn bạc với Nhân dân, đúc kết thành đường lối, chính sách và tổ chức thực hiện. Trong điều kiện Đảng cầm quyền, Người hết sức coi trọng vai trò của công tác kiểm tra, giám sát. Người nhấn mạnh, phải “khéo kiểm soát”. Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm lòi ra hết, hơn nữa, kiểm tra khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi. Qua kiểm soát mới biết rõ cán bộ và nhân viên tốt hay xấu; mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các cơ quan; và mới biết rõ ưu điểm và khuyết điểm của các mệnh lệnh và nghị quyết của Đảng, Nhà nước.
b) Phương pháp lãnh đạo
* Lãnh đạo theo nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra “hai cách thức lãnh đạo” căn bản giúp mang lại hiệu quả cao trong thực tiễn. Theo Người: “Bất kỳ công việc gì cũng phải dùng hai cách lãnh đạo sau đây: Một là liên hợp chính sách chung với sự chỉ đạo riêng. Hai là liên hợp người lãnh đạo với quần chúng”. Đó là sự kết hợp đúng đắn giữa đường lối, chính sách chung với tình hình cụ thể, giữa cái chung và cái riêng; giữa vai trò của cán bộ lãnh đạo và vai trò của quần chúng nhân dân.
Người cho rằng lãnh đạo không tập thể thì dẫn đến tệ bao biện, độc đoán, chủ quan, mất dân chủ. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không có cá nhân thì sẽ dẫn đến tệ bừa bãi, lộn xộn, vô chính phủ, kết quả cũng là hỏng việc. Từ đó Người khẳng định: “Tập thể lãnh đạo là dân chủ. Cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung”[3]. Và Người coi tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là chế độ lãnh đạo dân chủ.
Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ phải dự phòng bệnh và biết tự chữa bệnh quan liêu của chính bản thân mình bằng “đi sát cơ sở, nằm ở cơ sở” để “hỏi dân, học dân và hiểu dân”, để “học cách so sánh của nhân dân”, “so đi sánh lại, phân tích rõ ràng là cách làm việc có khoa học”[4]. Chứ không phải đóng cửa lại viết chương trình, lập kế hoạch rồi đưa ra cột vào cổ dân chúng, bắt dân chúng theo.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nghiêm khắc chỉ rõ tình trạng: “Có nhiều cán bộ không bàn bạc, không giải thích với dân chúng, không để cho dân chúng phát biểu ý kiến, giải quyết các vấn đề, chỉ bắt buộc dân chúng làm theo mệnh lệnh. Thậm chí khi dân chúng đề ra ý kiến và nêu rõ vấn đề, họ cũng tìm cách dìm đi. Họ chỉ làm theo ý kiến của họ. Kết quả làm cho dân chúng nghi ngờ, uất ức, bất mãn”[5].
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”[6]. Người đề ra các nguyên tắc, trong đó nhấn mạnh: “Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân chúng”, “Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước mặt dân chúng. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta”[7].
Người cho rằng phải chú trọng bàn bạc, học hỏi quần chúng, nhưng tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng. “Trong dân chúng có nhiều tầng lớp khác nhau, trình độ khác nhau, ý kiến khác nhau. Có lớp tiên tiến, có lớp lừng chừng, có lớp lạc hậu”. Tin vào trí tuệ của Nhân dân, nhưng người lãnh đạo không được “theo đuôi quần chúng” mà phải chịu trách nhiệm trước nhân dân, phải đóng vai trò chủ động, tích cực, năng động, sáng tạo trong dẫn dắt quá trình kiến tạo tri thức tập thể để đưa ra các quyết định hợp lý. Vai trò của lãnh đạo trong quá trình ra quyết định thể hiện ở chỗ biết phát huy những kiến thức, phương pháp lý luận khoa học đã được học để so sánh, tổng hợp các ý kiến của Nhân dân, làm sâu sắc hơn, lý giải cơ sở khoa học của nó và tiếp tục đưa sản phẩm tư duy, sáng tạo của mình cho Nhân dân phản biện. Về luận điểm này, Người chỉ rõ: “Cố nhiên, không phải dân chúng nói gì, ta cũng cứ nhắm mắt theo. Người cán bộ cũng phải dùng cách so sánh của dân chúng mà tự mình so sánh. Nghĩa là đem các ý kiến khác nhau để so sánh kỹ, phân tích kỹ các nội dung của các tầng lớp xã hội có cái ý kiến đó. Tìm ra mối mâu thuẫn trong những ý kiến khác nhau đó. Xem rõ cái nào đúng, cái nào sai. Chọn lấy ý kiến đúng, đưa ra cho dân chúng bàn bạc, lựa chọn lại, để nâng cao dần dần sự giác ngộ của dân chúng”[8].
* Phương pháp lãnh đạo là từ trong quần chúng ra và trở về nơi quần chúng
Theo Hồ Chí Minh, vì xa rời quần chúng mà sinh ra bệnh quan liêu, các lãnh đạo tốt nhất là “gom góp mọi ý kiến rời rạc, lẻ tẻ của quần chúng, rồi phân tích nó, nghiên cứu nó, sắp đặt nó thành những ý kiến có hệ thống. Rồi đem nó tuyên truyền, giải thích cho quần chúng, và làm cho nó thành ý kiến của quần chúng, và làm cho quần chúng giữ vững và thực hành ý kiến đó”[9], tức là tổ chức cho quần chúng làm. Hồ Chí Minh luôn tin vào lực lượng, trí tuệ và cách làm đầy sáng tạo của quần chúng. Người khẳng định: “Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”[10]. Trong lãnh đạo và chỉ đạo, điều hành, Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên phải thường xuyên hướng về cơ sở, gần gũi với quần chúng, nắm tâm tư, nguyện vọng của quần chúng; đồng thời, phải tin yêu, tôn trọng quần chúng, lắng nghe ý kiến đóng góp phê bình xây dựng của quần chúng, “học hỏi quần chúng nhưng không theo đuôi quần chúng”. Người cũng nhiều lần nhắc nhở đội ngũ cán bộ, đảng viên phải phê phán và đấu tranh để khắc phục cách làm việc quan liêu, mệnh lệnh, mà “tốt nhất là miệng nói, tay làm, làm gương cho người khác bắt chước”.
Có những việc cán bộ làm mãi không xong, nghĩ mãi không ra, nhưng, Hồ Chí Minh cảnh báo, không thèm học hỏi dân chúng, không thèm bàn bạc với dân chúng, đó là sự sai lầm nguy hiểm, sẽ luôn luôn thất bại. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, dân tham gia kiểm tra, không phải dân “phụ trách” công tác kiểm tra. Việc kiểm tra, kiểm soát là một nhiệm vụ của lãnh đạo, lãnh đạo mà không kiểm tra cũng như không lãnh đạo. Lãnh đạo kiểm soát kết quả công việc; quần chúng kiểm soát hoạt động của người lãnh đạo (cả ưu điểm và sai lầm) và tạo điều kiện phát huy ưu điểm, giúp đỡ sửa chữa những sai lầm mà người đó mắc phải. Hồ Chí Minh gọi đó là hai cách kiểm soát, dân kiểm soát từ dưới lên, lãnh đạo kiểm tra từ trên xuống, lần lượt như vậy, công việc nhất định có hiệu quả.
Như vậy, theo Hồ Chí Minh, phương pháp dân chủ trong lãnh đạo phải theo các nguyên tắc sau:
1. Việc gì cũng phải học hỏi và bàn bạc với dân chúng, giải thích cho dân chúng.
2. Tin vào dân chúng. Đưa mọi vấn đề cho dân chúng thảo luận và tìm cách giải quyết. Chúng ta có khuyết điểm, thì thật thà thừa nhận trước mặt dân chúng. Nghị quyết gì mà dân chúng cho là không hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến của dân chúng mà sửa chữa cán bộ và tổ chức của ta.
3. Chớ khư khư giữ theo “sáo cũ”. Luôn luôn phải theo tình hình thiết thực của dân chúng nơi đó và lúc đó, theo trình độ giác ngộ của dân chúng, theo sự tình nguyện của dân chúng mà tổ chức họ, tuỳ hoàn cảnh thiết thực trong nơi đó, và lúc đó, đưa ra tranh đấu.
4. Chúng ta tuyệt đối không nên theo đuôi quần chúng. Nhưng phải khéo tập trung ý kiến của quần chúng, hoá nó thành cái đường lối để lãnh đạo quần chúng. Phải đem cách nhân dân so sánh, xem xét, giải quyết các vấn đề, mà hoá nó thành cách chỉ đạo nhân dân.
5. “Phải đưa chính trị vào giữa dân gian”. Trước kia, việc gì cũng từ “trên dội xuống”. Từ nay việc gì cũng phải từ “dưới nhoi lên”. Làm như thế, chính sách, cán bộ và nhân dân sẽ nhất trí, mà Đảng ta sẽ phát triển rất mau chóng và vững vàng[11].
Năm nguyên tắc trên không phải là tất cả nhưng là những nguyên tắc cơ bản nhất của phương pháp lãnh đạo dân chủ của Hồ Chí Minh, thể hiện tư tưởng nhất quán từ trong quần chúng ra và trở lại nơi quần chúng. Ví như có tin dân mới dám đưa những việc đại sự quốc gia ra bàn với dân và giải thích cho dân, và cũng qua hỏi dân và học dân mà củng cố niềm tin vào tài trí của dân.
2. Sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam về thực hành cách lãnh đạo theo quan điểm của Hồ Chí Minh ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
a) Tăng cường công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng
Ở Việt Nam từ khi có Đảng, thực tiễn cách mạng đã khẳng định: "Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam"[12]. Thực tiễn cũng khẳng định: Xây dựng, chỉnh đốn Đảng luôn luôn là nhiệm vụ then chốt, đặc biệt quan trọng, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng ta, chế độ ta.
Trong hệ thống chính trị, Đảng cộng sản Việt Nam là “là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”[13]. Để giữ vững được vai trò lãnh đạo mà lịch sử đã lựa chọn, Đảng phải không ngừng làm tốt công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Những chỉ dẫn trên đây của Chủ tịch Hồ Chí Minh có ý nghĩa sâu sắc về thực tiễn và lý luận xây dựng Đảng trong điều kiện Đảng cầm quyền và vẫn nguyên giá trị thời sự cho công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và năng lực cầm quyền của Đảng hiện nay. Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta xác định xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt nên đã tích cực, chủ động đổi mới tư duy chính trị, chỉnh đốn Đảng về tư tưởng và tổ chức. Đó là sự đổi mới về phương pháp lãnh đạo của Đảng. Nét nổi bật trong đổi mới được thể hiện:
Trước hết là việc Đảng đề xuất và hoàn thiện đường lối đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Đại hội lần thứ VI của Đảng đã đề ra những nội dung cơ bản của đường lối đổi mới. Các hội nghị Ban chấp hành Trung ương đã hoàn thiện từng mặt trong đường lối đổi mới. Đại hội lần thứ VII của Đảng khẳng định, bổ sung và hoàn chỉnh đường lối đổi mới thành Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời đề ra Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000. Hai văn kiện quan trọng này đánh dấu sự phát triển tư duy lý luận chính trị của Đảng ta. Chúng ta ngày càng nhận thức đúng hơn về chủ nghĩa xã hội, về con đường đi lên CNXH ở nước ta.
Nét nổi bật thứ hai trong tư duy chính trị của Đảng là sự khẳng định lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động của Đảng.
Tiếp theo việc đổi mới tư duy chính trị là việc chỉnh đốn đảng trên lĩnh vực tư tưởng và tổ chức, đổi mới phong cách và phương thức lãnh đạo của Đảng. Đây là việc mà Hồ Chí Minh cho là phải làm thường xuyên, liên tục từ Trung ương đến cơ sở, tập trung vào giải quyết ba vấn đề:
- Thực hiện thật tốt dân chủ trong Đảng và lãnh đạo thực hiện dân chủ trong xã hội nhằm phát huy trí tuệ tập thể, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân.
- Tích cực đấu tranh làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của đội ngũ cán bộ, đảng viên, xử lý nghiêm những tổ chức và cá nhân đã thoái hoá, biến chất.
- Đảng là đội tiên phong của giai cấp công nhân nên giữ vững, tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất cách mạng và trình độ, trí tuệ của cán bộ, đảng viên.
Hội nghị lần thứ sáu (lần 2) Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã ra Nghị quyết về một số vấn đề cơ bản và cấp bách trong công tác xây dựng Đảng và mở rộng cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Cuộc vận động bước đầu đã thu được một số kết quả nhất định, song chưa đạt được yêu cầu đề ra. Vì vậy, Đại hội lần thứ IX của Đảng yêu cầu tiếp tục thực hiện các Nghị quyết về xây dựng Đảng, nhất là Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII nhằm khắc phục những khuyết điểm về công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhằm ngăn chặn và đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị và đạo đức lối sống trong Đảng, chỉnh đốn một số tổ chức Đảng có biểu hiện vi phạm…
Liên tục từ đó đến nay, nhiệm vụ xây dựng Đảng luôn được đề cập một cách thường xuyên và toàn diện; đặc biệt qua các đại hội gần đây, Đảng ta đều có những điểm nhấn quan trọng. Đại hội X (năm 2006) tập trung vào “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng”, Đại hội XI (năm 2011) lấy “Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng” làm một trong những thành tố quan trọng của chủ đề Đại hội, Đại hội XII (năm 2016) nhấn mạnh: “Tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh” ngay trong tiêu đề của Báo cáo chính trị. Đại hội tiếp tục khẳng định, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, liên quan đến sự tồn vong của Đảng và sự sống còn của chế độ. Đại hội đã nêu bật những kết quả quan trọng trong công tác xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, nhất là đã triển khai và thực hiện nghiêm túc, mang lại kết quả bước đầu Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 (khóa XI) về xây dựng Đảng và Chỉ thị số 03-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, bổ sung thêm nội dung về đạo đức trong công tác xây dựng Đảng. Đó là cơ sở để “Đảng ta giữ vững được bản lĩnh chính trị, bản chất cách mạng và khoa học, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kiên định đường lối đổi mới. Đảng ta xứng đáng là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”[14]. Đặc biệt gắn “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” theo tinh thần Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII về “Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”, coi đây là giải pháp đột phá để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh đang được triển khai sâu rộng trong thực tiễn.
Để thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá XII, 5 năm qua Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành Kế hoạch và 45 Nghị quyết, Quy định, Chỉ thị, Kết luận về công tác xây dựng đảng, chỉnh đốn đảng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khoá XII được triển khai toàn diện, đồng bộ, mạnh mẽ, quyết liệt, nhờ đó hiện tượng suy thoái, tự diễn biến, tự chuyển hoá trong đảng đã bước đầu được kiềm chế, ngăn chặn.
Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Đảng chỉ ra rằng: tình trạng này vẫn còn diễn biến phức tạp. Từ đó đặt ra yêu cầu: kiên quyết, kiên trì thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 khoá XI và khoá XII bằng các giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt, đồng bộ để ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái. Trước kia là Đảng đề ra tăng cường thực hiện, bây giờ là kiên quyết và kiên trì thực hiện.
Hội nghị Trung ương 4 khóa XIII (tháng 10/2021) đã thảo luận và ban hành Kết luận số 21-KL/TW về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” và Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25/10/2021 về những điều đảng viên không được làm với nhiều điểm mới nổi bật. So với Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, Kết luận số 21-KL/TW về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Kết luận đã mở rộng phạm vi, không chỉ trong xây dựng, chỉnh đốn Đảng mà còn bao gồm cả trong xây dựng hệ thống chính trị theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng. Kết luận nêu yêu cầu cao hơn là kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.
b) Vận dụng cách lãnh đạo theo quan điểm của Hồ Chí Minh trong phong cách lãnh đạo hiện nay
Một là, rèn luyện tư duy khoa học, độc lập và sáng tạo trong lãnh đạo, nhất là quyết định vấn đề cho đúng.
Cần khắc phục, hạn chế lối tư duy chủ quan, duy ý chí, áp đặt khi đề ra đường lối, chính sách và cả những biện pháp cụ thể. Không lấy những ý muốn chủ quan làm điểm xuất phát của đường lối, chính sách, dù đó là những mong muốn thành tâm. Phải nắm vững lý luận, những quy luật khách quan, nâng cao năng lực vận dụng sáng tạo quy luật vào thực tiễn của đất nước, của từng địa phương, từng ngành, từng lĩnh vực hoạt động. Phải nắm bắt thực tiễn vốn rất phong phú, sinh động, am hiểu thực tiễn một cách cặn kẽ, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh gọi là thấu hiểu, thì mới có thể vận dụng thành công lý luận vào thực tiễn đời sống và công việc.
Gắn kết thành công giữa lý luận với thực tiễn, nhất là lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và quá độ lên chủ nghĩa xã hội; về mô hình, cấu trúc, và phương thức vận hành của hệ thống chính trị; về chế độ kinh tế và cách thức tổ chức, quản lý nền kinh tế; về phát triển xã hội, chính sách xã hội và quản lý phát triển xã hội; về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hệ thống pháp luật và quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân; về lợi ích quốc gia, dân tộc, nội lực và hội nhập quốc tế... Những vấn đề thiết yếu đó hòa quyện trong nhận thức và hoạt động thực tiễn, năng lực tổ chức thực tiễn mới bảo đảm cho đổi mới phong cách lãnh đạo đi vào thực chất mang lại hiệu quả thiết thực. Khắc phục những biểu hiện lý luận suông, không phù hợp và chưa đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn, đồng thời chống hiện tượng coi thường lý luận, ngại và sợ học tập, nghiên cứu lý luận, hiểu lý luận một cách hời hợt.
Phong cách lãnh đạo mới đòi hỏi phải trang bị cho cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các lĩnh vực hoạt động về khoa học lãnh đạo, quản lý một cách có hệ thống, sâu sắc. Đào tạo, huấn luyện cán bộ lãnh đạo, quản lý phải đồng bộ cả về trí tuệ, lý luận, tư tưởng, đạo đức, khoa học lãnh đạo, quản lý, từ đó hoàn thiện phong cách lãnh đạo.
Hai là, nhận thức sâu sắc và vận dụng có hiệu quả phong cách làm việc dân chủ, khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Lãnh đạo, quản lý là một khoa học trong hoạt động chính trị, trong chính trị học, do đó đòi hỏi phong cách lãnh đạo của người lãnh đạo, quản lý phải mang tính khoa học. Làm việc có kế hoạch, mọi kế hoạch công tác phải được đề ra chủ động, có luận cứ với sự chuẩn bị kỹ lưỡng, cụ thể. Có như thế, công việc, nhiệm vụ mới được quyết định đúng đắn. Hết sức tránh lối làm việc chủ quan, áp đặt, thậm chí độc đoán, chuyên quyền có thể dẫn tới những quyết định không phù hợp với thực tế hoặc sai lầm. Kinh nghiệm lịch sử cho thấy, những sai lầm, khuyết điểm mắc phải đều do những quyết định thiếu cơ sở khoa học và hiện thực, chủ quan, nóng vội, giáo điều. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã nêu rõ một trong những biểu hiện của suy thoái về tư tưởng chính trị thể hiện trong phong cách, phương pháp lãnh đạo là: “Duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình; không chịu học tập, lắng nghe, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác”. Lối làm việc theo kiểu “tư duy nhiệm kỳ”, chỉ tập trung giải quyết những vấn đề ngắn hạn trước mắt, có lợi cho mình không chỉ bị phê phán mà cần phải loại bỏ khỏi hoạt động lãnh đạo, quản lý.
Phong cách lãnh đạo dân chủ phản ánh bản chất của Đảng và Nhà nước cách mạng, nó đối lập và xa lạ với phong cách quan liêu, mệnh lệnh, xa rời quần chúng nhân dân. Thấm nhuần chỉ dẫn và làm theo phong cách Hồ Chí Minh, trong công cuộc đổi mới, Đảng đã sớm đề ra chủ trương lãnh đạo bằng phương pháp dân chủ, trên cơ sở phát huy dân chủ. Vấn đề được Đảng và Nhà nước nhấn mạnh trong lãnh đạo hiện nay là phải thật sự hiểu dân, tin dân, lắng nghe ý kiến, nguyện vọng của dân, bàn bạc, hỏi ý kiến dân để chủ trương, chính sách, pháp luật thật sự vì dân. Phải kiên quyết chống quan liêu, mệnh lệnh, vô cảm với dân, thủ tục hành chính gây phiền hà với nhân dân và doanh nghiệp, người sản xuất, kinh doanh.
Ba là, đề cao tính tiền phong, gương mẫu, tinh thần trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo, quản lý, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu.
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan niệm lãnh đạo là dẫn đường, là hướng dẫn nhân dân chứ không phải cai trị dân. Vì vậy, người lãnh đạo phải hăng hái và gương mẫu, nghĩa là phải đi tiên phong và có đức hy sinh vì dân, vì nước. Người luôn luôn nhắc câu: đảng viên đi trước, làng nước theo sau, coi đó là trách nhiệm và cũng là lời khen chân thành của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên.
Trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo, quản lý được Người gọi là tinh thần phụ trách. Người cho rằng, không có tinh thần phụ trách thì không thể là người lãnh đạo. Tinh thần phụ trách, ý thức trách nhiệm cần thiết phải có ở mọi cán bộ, đảng viên, kể cả ở những người cán bộ bình thường “không quan trọng” và phải được đặc biệt đề cao ở cán bộ lãnh đạo, quản lý. Hậu quả của tình trạng hay biểu hiện vô trách nhiệm là rất nặng nề. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XI (2012) xác định một trong ba vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay là xác định rõ thẩm quyền, trách nhiệm người đứng đầu cấp ủy chính quyền trong mối quan hệ với tập thể cấp ủy, cơ quan, đơn vị. Cần phải thực hiện tốt hơn nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Vấn đề bức thiết đặt ra hiện nay là phải đánh giá đúng cán bộ, nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và phải có cơ chế kiểm soát quyền lực tốt hơn. Đề ra, hoàn thiện chế độ trách nhiệm gắn liền với tiêu chuẩn, tiêu chí của cán bộ lãnh đạo, quản lý ở tất cả các cấp. Đây là cơ sở pháp lý rất quan trọng để đánh giá, lựa chọn và xử lý cán bộ và cũng là định hướng để mỗi cán bộ lãnh đạo, quản lý có ý thức học tập, rèn luyện và phấn đấu không ngừng theo tấm gương đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh./.