KỶ NIỆM 79 NĂM NGÀY TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN (19/12/1946-19/12/2025): Từ Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến đến khát vọng Việt Nam hùng cường hôm nay
19/12/2025 02:14
Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam nhiều lần đối diện những thử thách sinh tử, đòi hỏi phải phát huy cao độ lòng yêu nước, ý chí độc lập, tự cường và khát vọng tồn vong của cả dân tộc. Một dấu mốc đặc biệt là cuối năm 1946, khi thực dân Pháp bội ước, quyết tâm xâm lược nước ta lần nữa. Trước thách thức sống còn đó, ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, hiệu triệu toàn dân đứng lên bảo vệ nền độc lập...
KỶ NIỆM 79 NĂM NGÀY TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN (19/12/1946-19/12/2025): Từ Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến đến khát vọng Việt Nam hùng cường hôm nay

ThS. Nguyễn Thị Chiên

Giảng viên chính khoa Lý luận cơ sở

Trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc Việt Nam nhiều lần đối diện những thử thách sinh tử, đòi hỏi phải phát huy cao độ lòng yêu nước, ý chí độc lập, tự cường và khát vọng tồn vong của cả dân tộc. Một dấu mốc đặc biệt là cuối năm 1946, khi thực dân Pháp bội ước, quyết tâm xâm lược nước ta lần nữa. Trước thách thức sống còn đó, ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, hiệu triệu toàn dân đứng lên bảo vệ nền độc lập. Tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” từ đó trở thành biểu tượng bất diệt của ý chí không có gì quý hơn độc lập, tự do và khát vọng hòa bình bền vững của dân tộc Việt Nam.

1. Giá trị lịch sử, tư tưởng và thời đại của Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến

1.1. Tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” của Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến

Sau thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời trong tình thế vô cùng hiểm nghèo. Chính quyền cách mạng còn non trẻ, nền kinh tế kiệt quệ, nạn đói, nạn dốt hoành hành, trong khi các thế lực đế quốc, phản động trong và ngoài nước ráo riết chống phá. Với dã tâm xâm lược nước ta lần nữa, thực dân Pháp đã liên tiếp gây hấn vũ trang ở Nam Bộ, Nam Trung Bộ và từng bước mở rộng chiến tranh ra Bắc Bộ.

Trước tình hình đó, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiên trì đường lối hòa hoãn có nguyên tắc, tranh thủ thời gian để củng cố lực lượng, chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài. Tuy nhiên, đến cuối năm 1946, khi mọi nỗ lực hòa bình không còn khả năng cứu vãn, thực dân Pháp nổ súng đánh chiếm Hà Nội, quyết tâm đặt lại ách thống trị lên toàn bộ đất nước ta. Trước giờ phút lịch sử ấy, tối ngày 19/12/1946, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh vang lên như một lời hịch non sông:

“Chúng ta muốn hòa bình, chúng ta phải nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa! Không! Chúng ta thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ…”[1]

Lời kêu gọi không chỉ mở đầu cho cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và tự lực cánh sinh, mà còn khẳng định một chân lý lớn: Độc lập, tự do của dân tộc là giá trị thiêng liêng, bất khả xâm phạm.

Từ Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” đã lan tỏa mạnh mẽ trong toàn xã hội, trở thành phương châm hành động và lý tưởng sống của hàng triệu người Việt Nam. Đây không chỉ là khẩu hiệu chiến đấu, mà là sự kết tinh cao độ của chủ nghĩa yêu nước, ý chí độc lập dân tộc và khát vọng sống của cả một dân tộc.

Về bản chất, tinh thần “quyết tử” là sự sẵn sàng hy sinh cái riêng vì cái chung, sẵn sàng hiến dâng tính mạng cá nhân cho sự tồn vong của Tổ quốc. Nhưng sâu xa hơn, đó chính là biểu hiện tập trung của niềm tin tuyệt đối vào chính nghĩa, vào thắng lợi cuối cùng của cách mạng Việt Nam. Người chiến sĩ ra trận “quyết tử” không phải để chết, mà để bảo vệ sự sống của dân tộc, bảo vệ tương lai của đất nước - đúng như hàm nghĩa “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

Tinh thần ấy đã trở thành động lực tinh thần to lớn, làm nên sức mạnh vô địch của quân và dân ta trong suốt hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Biết bao thế hệ thanh niên “xếp bút nghiên lên đường ra trận”, biết bao gia đình sẵn sàng hiến dâng những người con ưu tú nhất của mình cho Tổ quốc. Từ chiến hào Hà Nội 60 ngày đêm khói lửa, đến Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, từ Trường Sơn huyền thoại đến Đại thắng mùa Xuân năm 1975 - ở đâu cũng rực cháy tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.

1.2. Giá trị tư tưởng - thời đại sâu sắc của Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự kết hợp đặc sắc giữa tư tưởng yêu nước truyền thống của dân tộc Việt Nam với tinh thần cách mạng khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin. Trong đó, những giá trị tư tưởng nổi bật có thể khái quát ở một số điểm sau:

Thứ nhất, khẳng định dứt khoát quyền độc lập, tự do là thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Đây là sự tiếp nối trực tiếp tư tưởng lớn trong Tuyên ngôn Độc lập năm 1945: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”[2].

Thứ hai, khẳng định vai trò quyết định của nhân dân trong sự nghiệp kháng chiến. Lời kêu gọi hướng tới toàn thể dân tộc, từ “bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ”[3], thể hiện rõ tư tưởng Dân là gốc, Nhân dân là chủ thể đồng thời là nguồn lực hùng mạnh nhất của dân tộc, do đó kháng chiến toàn dân là hình thái chiến tranh động viên, tổ chức lực lượng toàn thể các tầng lớp nhân dân thành sức mạnh đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập dân tộc - một nội dung cốt lõi trong tư tưởng quân sự Hồ Chí Minh.

Thứ ba, khẳng định niềm tin tất thắng vào chính nghĩa và sức mạnh dân tộc. Dù kẻ thù mạnh hơn về vũ khí, trang bị, nhưng với tinh thần “ai có súng dùng súng, ai có gươm dùng gươm”[4], dân tộc Việt Nam nhất định giành thắng lợi.

Không chỉ có ý nghĩa lịch sử đối với cuộc kháng chiến chống Pháp, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến còn mang giá trị thời đại sâu sắc. Đó là bản tuyên ngôn về bản lĩnh, khí phách và khát vọng sống của một dân tộc không bao giờ chịu khuất phục trước áp bức, cường quyền. Giá trị ấy đã, đang và sẽ tiếp tục soi sáng con đường phát triển của dân tộc Việt Nam trong mọi giai đoạn lịch sử.

2. Khát vọng phát triển đất nước Việt Nam hùng cường trong giai đoạn hiện nay

2.1. Xây dựng đất nước Việt Nam hùng cường - động lực tinh thần mới, tiếp nối khát vọng độc lập dân tộc và tự do, hạnh phúc của nhân dân trong kỷ nguyên hội nhập, phát triển, giàu mạnh, văn minh

Nếu trong thời chiến, tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” là đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, thì trong thời bình, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, hùng cường chính là biểu hiện tập trung nhất của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam trong điều kiện lịch sử mới. Đây không chỉ là mong muốn tự phát của nhân dân, mà đã trở thành ý chí, quyết tâm chính trị và mục tiêu chiến lược của Đảng, Nhà nước và toàn dân tộc.

Trải qua gần 40 năm đổi mới, từ một nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, Việt Nam đã vươn lên trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân không ngừng được cải thiện. Những thành tựu đó tạo ra nền tảng hiện thực vững chắc để khát vọng phát triển đất nước lên tầm cao mới, không chỉ “thoát nghèo” mà tiến tới “phát triển nhanh, bền vững và hùng cường”. Điều này đã được thể hiện trong văn kiện Đại hội XIII của Đảng: Phát triển đất nước nhanh và bền vững trên cơ sở khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số; khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Như vậy, khát vọng phát triển đất nước hùng cường không chỉ là mục tiêu kinh tế, mà là động lực tinh thần mang tầm chiến lược quốc gia, có vai trò định hướng cho toàn bộ tiến trình phát triển đất nước trong nhiều thập niên tới.

2.2. Những biểu hiện sinh động của khát vọng Việt Nam hùng cường trong thực tiễn hiện nay

Khát vọng phát triển đất nước hùng cường không chỉ tồn tại ở tầm tư tưởng, đường lối chính trị, mà đã và đang thấm sâu vào đời sống xã hội, trở thành động lực thúc đẩy hành động của cả hệ thống chính trị và toàn dân.

Nội hàm của khái niệm “Việt Nam hùng cường” thể hiện  toàn diện, bao trùm cả kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại. Có thể khái quát một số nội dung cơ bản sau:

Thứ nhất, hùng cường về kinh tế.

Đó là nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh cao; chủ động tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu; làm chủ các công nghệ lõi, công nghệ chiến lược; kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn ngày càng trở thành trụ cột quan trọng. Mục tiêu đến năm 2045 trở thành nước phát triển, thu nhập cao chính là thước đo cụ thể nhất cho khát vọng hùng cường về kinh tế.

Thứ hai, hùng cường về chính trị - thể chế.

Đó là một Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; hệ thống chính trị tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; dân chủ được mở rộng gắn với kỷ cương, pháp luật; năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng không ngừng được nâng cao; lòng tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ ngày càng được củng cố vững chắc. Cải cách hành chính, chuyển đổi số quốc gia, xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số được đẩy mạnh; người dân ngày càng tham gia sâu hơn vào quá trình quản lý nhà nước và xã hội; dân chủ gắn với kỷ luật, kỷ cương, thượng tôn pháp luật ngày càng được đề cao.

Thứ ba, hùng cường về văn hóa và con người.

Đó là nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thấm sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội; con người Việt Nam phát triển toàn diện, có trí tuệ, đạo đức, bản lĩnh, khát vọng vươn lên và tinh thần cống hiến cho Tổ quốc. Văn kiện Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh việc phát triển con người là trung tâm, là chủ thể, là mục tiêu và là động lực của sự phát triển.

Thứ tư, hùng cường về quốc phòng, an ninh và đối ngoại.

Đó là nền quốc phòng toàn dân, an ninh nhân dân vững mạnh; độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững trong mọi tình huống; đồng thời, Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế. Trong bối cảnh tình hình khu vực và thế giới diễn biến phức tạp, tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ chủ quyền lãnh thổ tiếp tục được khơi dậy mạnh mẽ. Chủ trương kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng, an ninh; giữa đối nội vững chắc với đối ngoại chủ động, tích cực đã góp phần ổn định tình hình, nâng tầm vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

Như vậy, khát vọng Việt Nam hùng cường là sự tiếp nối tất yếu của khát vọng độc lập dân tộc trong thời đại Hồ Chí Minh, là kết quả của cả một quá trình đấu tranh gian khổ, hy sinh bền bỉ của nhiều thế hệ người Việt Nam. Nếu không có “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” trong kháng chiến, thì sẽ không có nền hòa bình, độc lập và cơ đồ để hôm nay nói tới “Việt Nam hùng cường”.

Đồng thời, trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn gay gắt, thách thức an ninh phi truyền thống gia tăng, yêu cầu phát triển nhanh và bền vững trở thành vấn đề sống còn của mỗi quốc gia, thì khát vọng hùng cường không chỉ là nhu cầu bên trong, mà còn là đòi hỏi khách quan từ sự vận động của thời đại.

3. Một số vấn đề đặt ra và giải pháp nhằm tiếp tục phát huy tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” trong hiện thực hóa khát vọng Việt Nam hùng cường hiện nay

Trong bối cảnh đất nước bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng và chuyển đổi số toàn diện, tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” - biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam - tiếp tục giữ vai trò là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn. Tuy nhiên, khác với thời chiến, sự hy sinh, cống hiến hôm nay không còn thể hiện chủ yếu qua chiến đấu vũ trang bảo vệ Tổ quốc, mà được cụ thể hóa trong lao động, sáng tạo, dấn thân vì lợi ích quốc gia - dân tộc. Chính vì vậy, việc phát huy tinh thần “quyết tử” trong thời bình vừa có điều kiện thuận lợi mới, vừa đặt ra nhiều thách thức mới.

Trước hết, phải thẳng thắn nhìn nhận rằng, bên cạnh những kết quả tích cực, quá trình phát huy tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” hiện nay đang đứng trước không ít khó khăn, thách thức. Một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; phai nhạt lý tưởng cách mạng, giảm sút ý chí phấn đấu. Tình trạng ngại đổi mới, né tránh trách nhiệm, sợ sai, sợ va chạm vẫn tồn tại ở một số nơi, làm giảm động lực cống hiến và tinh thần dấn thân vì lợi ích chung. Chủ nghĩa cá nhân, tư tưởng thực dụng, cơ hội, chạy theo lợi ích vật chất có xu hướng gia tăng, làm xói mòn các giá trị truyền thống tốt đẹp, trong đó có tinh thần sẵn sàng hy sinh vì Tổ quốc, vì nhân dân. Bên cạnh đó, khoảng cách phát triển giữa các vùng, miền, giữa các nhóm xã hội còn khá lớn, tác động không nhỏ đến sự đồng thuận xã hội, đến niềm tin và động lực cống hiến của một bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.

Từ thực tiễn đó, để tiếp tục phát huy mạnh mẽ tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” trong bối cảnh mới, cần tập trung thực hiện đồng bộ một số giải pháp cơ bản sau:

Thứ nhất, tiếp tục đẩy mạnh giáo dục lý tưởng cách mạng, đạo đức, lối sống cho cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ.

Đây là giải pháp có ý nghĩa nền tảng, lâu dài và có tính quyết định. Cần làm cho tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” không chỉ dừng lại ở khẩu hiệu, biểu tượng lịch sử, mà phải thực sự trở thành giá trị sống, chuẩn mực đạo đức trong toàn xã hội. Việc giáo dục cần được thực hiện sinh động, thiết thực, gắn với các phong trào hành động cách mạng, các hoạt động thực tiễn, các tấm gương người tốt, việc tốt trong lao động, học tập, công tác, bảo vệ Tổ quốc. Đặc biệt, đối với thế hệ trẻ, cần kết hợp hài hòa giữa giáo dục truyền thống yêu nước với trang bị tri thức mới, kỹ năng mới, khơi dậy khát vọng cống hiến, ý chí vươn lên, tinh thần dấn thân, sẵn sàng đảm nhận những việc khó, việc mới vì lợi ích chung của đất nước.

Thứ hai, hoàn thiện thể chế để bảo vệ và khuyến khích người dám nghĩ, dám làm, dám hi sinh, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.

Tinh thần “quyết tử” trong thời bình thể hiện rõ ở bản lĩnh chính trị, sự dám đột phá, dám đổi mới, dám chịu trách nhiệm trước nhân dân và pháp luật. Do đó, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách theo hướng tạo không gian an toàn cho đổi mới, sáng tạo; bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám làm vì lợi ích chung, đồng thời xử lý nghiêm minh các hành vi lợi dụng đổi mới để trục lợi cá nhân. Có cơ chế đánh giá cán bộ dựa trên hiệu quả công việc, sản phẩm cụ thể, thay vì nặng về hình thức, thủ tục. Chỉ khi người dám chịu trách nhiệm được bảo vệ, tôn vinh và tạo điều kiện phát triển thì tinh thần dấn thân, cống hiến mới thực sự lan tỏa bền vững trong hệ thống chính trị và toàn xã hội.

Thứ ba, tăng cường xây dựng và lan tỏa mạnh mẽ văn hóa cống hiến trong toàn xã hội.

Văn hóa cống hiến là môi trường tinh thần quan trọng để nuôi dưỡng và phát huy tinh thần “quyết tử” trong thời bình. Cần tạo dựng môi trường xã hội lành mạnh, nơi mà mỗi cá nhân nhận thức sâu sắc rằng cống hiến cho đất nước, cho cộng đồng không chỉ là trách nhiệm mà còn là vinh dự, là giá trị sống cao đẹp. Việc xây dựng văn hóa cống hiến phải gắn với xây dựng văn hóa liêm chính, văn hóa trách nhiệm, văn hóa phục vụ nhân dân trong đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Đồng thời, cần kịp thời biểu dương, tôn vinh những tập thể, cá nhân tiêu biểu trong lao động, sáng tạo, khởi nghiệp, nghiên cứu khoa học, bảo vệ chủ quyền, an sinh xã hội… qua đó khơi dậy và lan tỏa mạnh mẽ tinh thần cống hiến, hy sinh vì lợi ích chung trong toàn xã hội.

Thứ tư, tiếp tục phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh vô địch mà Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định và thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh. Phát huy tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” trong bối cảnh mới càng phải gắn chặt với việc củng cố, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Cần kết hợp hài hòa lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; bảo đảm công bằng xã hội, chăm lo tốt hơn đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Đồng thời, khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng, nguồn lực trong và ngoài nước cho sự nghiệp phát triển nhanh và bền vững đất nước, trên cơ sở đồng thuận xã hội và niềm tin vững chắc của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước.

Như vậy, việc tiếp tục phát huy tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” trong thời bình không chỉ là yêu cầu mang tính lịch sử - truyền thống, mà còn là đòi hỏi khách quan của sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh mới. Khi tinh thần ấy được khơi dậy và lan tỏa mạnh mẽ, nó sẽ trở thành nguồn động lực tinh thần to lớn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Kết luận

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh với tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” là một trong những giá trị tư tưởng - tinh thần lớn lao, bền vững nhất của cách mạng Việt Nam. Tinh thần ấy đã làm nên sức mạnh vô địch giúp dân tộc ta vượt qua muôn vàn gian khổ, hy sinh, giành độc lập, thống nhất đất nước.

Trong thời bình hôm nay, tinh thần “quyết tử” không mất đi, mà được chuyển hóa, nâng tầm thành khát vọng xây dựng một Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc. Từ chiến hào khói lửa đến công trường, nhà máy, phòng thí nghiệm, từ mặt trận quân sự đến mặt trận kinh tế, văn hóa, khoa học - công nghệ, tinh thần yêu nước, dấn thân và cống hiến vẫn là sợi chỉ đỏ xuyên suốt lịch sử cách mạng Việt Nam. Phát huy tinh thần “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” trong bối cảnh mới không chỉ là sự tri ân đối với các thế hệ đi trước, mà còn là yêu cầu khách quan để hiện thực hóa khát vọng Việt Nam hùng cường, khẳng định vị thế, uy tín của đất nước trên trường quốc tế trong thế kỷ XXI.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, tập 4, 5, 7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
  2. Đảng Cộng sản Việt Nam (2021): Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập I, II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
  3. Ban Tuyên giáo Trung ương (2021): Những nội dung cơ bản của Văn kiện Đại hội XIII của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.
  4. Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam (2015): Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp (1945–1954), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội.
  5. Nguyễn Phú Trọng (2022): Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội.

 



[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.534

[2] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 3

[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.534

[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Tập 4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.534